Ta vẫn còn thương nhớ, mà người đã thờ ơ. General Fiction. Đây là một câu chuyện về một triều đại không có thật. Toàn bộ tình tiết, nhân vật, bối cảnh trong truyện đều là hư cấu. Truyện là lời kể của một nữ thầy bói tinh ranh, có chút lươn lẹo, không phù hợp
Ôi ruộng đồng quê thương nhớ ơi! Bài thơ Nhớ đồng đã diễn tả thành công tâm trạng của người tù cộng sản. Những nỗi nhớ thương cứ lặp đi lặp lại thể hiện khao khát tự do cháy bỏng và tình yêu quê hương sâu sắc của người thanh niên yêu nước đang sục sôi
4. Nhớ đồng cũng còn là nỗi nhớ chính mình. Phần sau của bài thơ là sự hồi tưởng về quãng đời vừa qua của chính nhà thơ, một người thanh niên cách mạng mới bước vào con đường hoạt động say mê, đầy náo nức thì bị ném vào trong bốn bức tường của xà lim nhà tù
Bởi với các bạn ấy, con sông quê như là người bạn lớn. Con sông ấy là chỗ để nhà thơ và bạn bè trổ tài kình ngư. Con sông đã chứng kiến biết bao chuyện buồn vui của lũ trẻ. Dòng sông ấy thân thuộc đến mức, tác giả như ôm ấp nó vào lòng còn nó lại ôm ấp nhà thơ và dạ. Cả hai nâng đỡ cho nhau, bảo vệ lẫn nhau.
Những dặm đường quê hương. Sóng gần nhớ xa. để rồi ra đi với nỗi khắc khoải với Đồng Khánh, ghi nhớ mãi trong cuộc sống ly hương. Tuyển tập được thể hiện bằng nhiều thể loại: Tùy bút, ký sự, tự thuật, truyện ngắn, trữ tình, hoài niệm, đôi khi pha lẫn
. Thương Nhớ Đồng Quê GIỚI THIỆU CHUNG Tác giả Nguyễn Huy Thiệp Thể loại Podcast Nguồn Sưa tầm Trạng thái Hoàn thành NỘI DUNG PODCAST “Cánh đồng rộng quá… Anh có biết cánh đồng bắt đầu từ đâu không?” “Cánh đồng bắt đầu từ nơi rất sâu trong lòng tôi Trong máu thịt tôi đã có cánh đồng …Tôi làm sao quên được nơi mẹ sinh ra tôi Mẹ đã buộc cuống rốn cho tôi bằng sợi chỉ Tắm gội cho tôi bằng nước ao đầm trước…” THƯƠNG NHỚ ĐỒNG QUÊ – truyện ngắn của nhà văn Nguyễn Huy Thiệp được viết vào năm 1992 và chuyển thể thành phim vài năm sau đó. Đúng như tên tác phẩm, bối cảnh của truyện là những hình ảnh bình dị, mộc mạc về làng quê trong suy nghĩ, trong tự sự của chàng trai 17 tuổi – Nhâm. Không dừng lại ở việc tả cảnh, tác giả còn đi sâu hơn vào đời sống của từng nhân vật, cuộc sống trên đồng quê với những con người đa hình, đa vẻ đã tô điểm thêm cho bức họa làng quê thêm đa sắc, đa màu, như chuyện của sư Thiều, chuyện của ông giáo Quỳ, chuyện của chú Phụng… chuyện của những lao động nghèo, bình dị tuy tư tưởng và lập trường hoàn toàn khác nhau. cập nhật audio truyện mới và hot nhất hiện nay. Các bạn muốn nghe truyện gì tiếp theo 🤔? Hãy đánh giá 5* và để lại tên truyện trong comment cho chúng tớ biết nhé! ^^ Mời các bạn nghe audio truyện full được sưu tầm bởi ️️ Truyện đã được up hoàn chỉnh. Chúc các bạn nghe truyện vui vẻ. 💛🧡 Cảm ơn các bạn đã lắng nghe và ủng hộ chúng tôi 🧡💛 📧 Email góp ý info 💌 Facebook
Từ trang 123 đến 139 của sách này, Đặng Nhật Minh viết về quá trình làm phim “Thương Nhớ Đồng Quê”. Ông ghi rõ ở trang 130, “những ngày làm phim Thương Nhớ Đồng Quê là những ngày hạnh phúc nhất trong đời làm phim của tôi”.Trong số các phim điện ảnh chuyển thể từ truyện ngắn của Nguyễn Huy Thiệp, có thể kể 4 phim- Tướng Về Hưu chuyển thể từ truyện ngắn cùng tên, 1988- Thương Nhớ Đồng Quê chuyển thể từ truyện ngắn cùng tên, 1995- Những Người Thợ Xẻ chuyển thể từ truyện ngắn cùng tên, 1998- Tâm Hồn Mẹ chuyển thể từ truyện ngắn cùng tên, 2011 Đây có lẽ là phim đáng chú ý nhất. Tôi cũng nhớ nhiều về phim này dù chỉ xem lướt qua trên màn hình máy 3 này, tôi lấy sách ra đọc lại. Tôi muốn biết quá trình viết kịch bản của phim này. Đặng Nhật Minh viết khá chi tiết. Ông đã hoàn tất kịch bản chuyển thể từ khoảng giữa năm 1994. Do đâu? Do “hứng mà viết”, do “thấy ở truyện ngắn này một không gian điện ảnh đầy gợi cảm”. Ông cũng đã mời Nguyễn Huy Thiệp đến nhà riêng để cùng bàn về việc chuyển thể. Ông đã vẽ ra trên giấy “một sơ đồ tay ba” để trình bày. Nguyễn Huy Thiệp thốt lên, “Ông thắng rồi. Bộ phim nhất định thành”. Nguyễn Huy Thiệp đề nghị ông tiếp tục một mình và gợi ý hãy kết hợp thêm truyện “Bài học nông thôn”. Kịch bản bị từ chối bởi Hãng phim Giải Phóng vì “thiếu yếu tố để làm thành một phim truyện”. Đến tháng đài truyền hình NHK Nhật có gởi lời mời làm phim đến ông. Kịch bản Thương Nhớ Đồng Quê được duyệt kinh phí sản xuất. Độc giả quan tâm có thể đọc tiếp chuyện sản xuất, phát hành và phản ứng của dư luận cũng như giới quản lý văn hóa thời bấy giờ trong sách. Quyển hồi ký này đã được tái bản 2 lần, lần in mới nhất có tựa “Đặng Nhật Minh – Điện ảnh và cuộc đời”, hiện vẫn đang trên kệ bán tại các nhà sách toàn Thư Tủ Sách Sân Khấu Điện ẢnhSoạn ngày *T/B- Thông tin về quyển sách trong ảnh đầu bài có thể tra cứu tại Tôi vào danh mục các phim từng sản xuất của NHK thì tìm được phần lưu trữ về phim Thương Nhớ Đồng Quê tại đây. Đây được xếp vào nhóm phim đồng sản xuất. Tên phim khi trình chiếu ở Nhật là "Nhâm" tên nhân vật chính. - Nhờ thông tin từ NHK, tôi biết thêm trên hành trình tiến vào thế giới Anh Ngữ và Pháp Ngữ phim đoạt được 3 giải thưởng như sau~~ Một giải của ban giám khảo tại LHP Rotterdam Hà Lan, 1996 ~~ Hai giải đều do khán giả bình chọn ở các LHP Nantes Pháp, 1996 và LHP Fribourg Thụy Sĩ, 1997 - Trong quá trình tìm kiếm ảnh dán tường quảng bá cho phim Thương Nhớ Đồng Quê tựa tiếng Anh Nostalgia For The Countryside thì có lẽ poster ở ảnh đầu bài là tấm tôi thích nhất trong 3 tấm tìm được. Không rõ đây có phải là tấm chính thức do nhà phát hành sản xuất hay không? Nhìn vào vòng nguyệt quế có đề tên thành phố Nantes, tôi đoán poster này ra đời sau khi phim đoạt giả tại LHP quốc tế “3 lục địa” Festival des 3 Continents tại đây vào thời điểm 1996. Rất có thể ban truyền thông của LHP đã thiết kết. Cũng có thể là phía sản xuất hoặc cũng có thể là một khán giả hâm mộ đã chế tác bức ảnh.
Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ Nội dung Text Thương Nhớ Đồng Quê Thương Nhớ Đồng Quê Nguyễn Huy Thiệp Thương Nhớ Đồng Quê Tác giả Nguyễn Huy Thiệp Thể loại Truyện Ngắn Website Date 29-October-2012 Tôi là Nhâm. Tôi sinh ở làng quê, lớn lên ở làng quê. i trên đường Năm nhìn về làng tôi chỉ thấy một vệt xanh nhô trên đồng vàng. Xa mờ là vòng cung ông Sơn, trông thì gần nhưng từ làng tôi lên đấy phải năm mươi cây số. Làng tôi gần biển, mùa hè vẫn có gió biển thổi về. Tháng Năm âm lịch là mùa gặt. Mẹ tôi, chị Ngữ, chú Phụng với tôi ra đồng từ mờ sáng. Ba người gặt, còn tôi gánh lúa. Tôi gánh lúa về nhà, đi men theo đường mương. Nắng gắt lắm, ngoài trời có lẽ phải bốn mươi độ. Bùn non bên vệ mương nứt nẻ, bong cong lên như bánh đa. Tôi mơ mộng lắm, hay nghĩ. Bố tôi là thiếu tá, cán bộ trung cấp kỹ thuật hải quân, vẫn đi ra các đảo lấp ra đa với máy thông tin, mỗi năm về phép một lần. Bố tôi thuộc hết tên các đảo. Mẹ tôi chẳng bao giờ đi xa khỏi làng. Mẹ tôi bảo "Ở đâu chẳng thế, chỗ nào cũng toàn là người". Chú Phụng thì khác, chú Phụng đã đi nhiều nơi, chú Phụng bảo tôi khi chỉ có hai chú cháu với nhau "Trong thiên hạ không phải chỉ có người đâu, có các thánh nhân, có yêu quái". Nhà chú Phụng toàn phụ nữ mẹ vợ, vợ, bốn đứa con gáị Chú Phụng đùa"Chú đẹp giai nhất nhà". Chị Ngữ là chị dâu tôi, lấy anh Kỷ. Anh Kỷ đang làm công nhân trên mỏ thiếc Tĩnh Túc Cao Bằng. Chị Ngữ là con ông giáo Quì dạy cấp một ở làng. Hồi trước tôi học ông giáo Quì. Ông giáo Quì có nhiều sách. Mọi người vẫn bảo ông là "đồ gàn", lại bảo ông là "lão dê già", "Quì dê". Ông giáo Quì có hai vợ, vợ cả sinh ra chị Ngữ, chị đâu tôi. Vợ hai là thím Nhung, vừa là thợ may, vừa bán quán, sinh ra thằng Văn bạn tôi. Thím Nhung trước kia là gái giang hồ ở Hải Phòng. Ông giáo Quì lấy về làm vợ nên uy tín chẳng còn gì. Tôi gánh được chục gánh lúa thì đầy ùn cả sân. Tôi gọi cái Minh dọn rơm để có chỗ xếp lúa. Cái Minh em tôi người nhỏ quắt, đen đúa nhưng mắt sáng, lại dai sức. Cái Minh chui ở bếp ra, mặt đỏ gay, mồ hôi ướt đầm hai bên vạt áo. Tôi ra bể nước mưa múc đầy cả một gáo dừa uống ừng ực. Nước mát lịm. Mẹ tôi vẫn hay chan cơm nước mưa ăn với cà muối. Mẹ tôi không ăn được thịt mỡ. Sân nóng hừng hực, hơi nóng mờ mờ bốc lên ngây ngất. Mùi lúa ngột ngạt. ường làng đầy rơm rạ phơi ngổn ngang. Tôi đi qua cổng nhà dì Lưu thấy có đám người xúm đông. Cái Mị con dì Lưu gọi tôi"Anh Nhâm !". Tôi vào thấy ông Ba Vện bưu điện xã đang nhét thư báo vào túi bạt sau yên xe đạp. Cái Mị bảo tôi"Có điện của chị Quyên ngoài Hà Nội". Trang 1/5 Thương Nhớ Đồng Quê Nguyễn Huy Thiệp Dì Lưu là em mẹ tôi, bị liệt mấy năm nay. Chú Sang chồng dì Lưu đang công tác bên Lào, chú là kỹ sư cầu đường. Anh trai chú Sang ngoài Hà Nội có con gái là Quyên đi học đại học bên Mỹ. Hồi bé Quyên đã có lần về thăm quê. Tôi cầm bức điện đọc"Cô Lưu cho người ra ga đón cháu Quyên 14 giờ ngày... ". Tôi hỏi cái Mị"Chiều nay à?". Cái Mị gật đầu. Dì Lưu nằm nghiêng tựa lưng vào tường. Lúc nào dì Lưu cũng nằm như thế đã sáu năm nay. Dì Lưu bảo tôi"Nhâm giúp dì ra đón em Quyên nhé". Tôi bảo"Nhà cháu đang gặt". Dì Lưu bảo "ể đấy đã. Gặt ở khoảnh nào?". Tôi bảo"Gặt ở khoảnh gieo bào thai hồng". Cái Mị cầm bức điện ra đồng để nói với mẹ tôi. Cái Mị cùng tuổi cái Minh em tôi nhưng cái Mị trắng hơn, đậm người hơn. Nó hay nói, hay làm nũng. Cái Mị bảo"Anh Nhâm ơi, hôm nào anh làm cho em cái lồng lấy ổi". Lồng lấy ổi làm bằng cây nứa tươi, đầu lòng hơi giống hom giỏ, có hàm răng mở ra. Tôi bảo"Em kiếm nứa đi". Cái Mị bảo"Em có rồi. Mai anh làm nhé". Tôi nhẩm việc, thấy kín hết chỗ từ sớm đến khuya. Cái Mị bảo"Mai đấy". Tôi bảo"Ừ". Nhà cái Mị có ba cây ổi, nó trèo ổi gãy cành có lần suýt ngã. Chú Phụng đọc tờ điện báo nói "Sao lại bưu cục Thế là nghĩa lý gì?". Mẹ tôi bảo"Dì Lưu đã nhờ thì Nhâm đi đi. Cái áo mới mẹ để ở hòm, lấy mà mặc". Tôi bảo cái Mị"Em về đị Anh phải gặt đến trưa, ăn cơm rồi đi luôn". Cái Mị đi về một mình. Bóng nó cứ ngụp dần trên cánh đồng xa tít tắp đang gặt nham nhở. Tôi cầm liềm. Quơ một vòng sát chân rạ. Giật mạnh. Bước sang trái. Quơ liềm. Giật mạnh. Lại bước sang trái. Lại quơ liềm. Lại giật mạnh. Cứ thế. Cứ thế mãi. ất trên mặt ruộng ẩm ướt. Những con châu chấu nhỏ xíu nhảy lách tách. ến giữa trưa thì đồng vắng lắm. Nhìn ra chỉ có bốn người nhà tôi giữa đồng. Mẹ tôi ngồi bên vệ cỏ nhổ gai ở chân. Chị Ngữ đội nón, khăn trùm mặt, quấn xà cạp đến tận mắt cá chân, ngơ ngẩn nhìn về dãy núi xa phía vòng cung ông Sơn. Chú Phụng xếp lúa để gánh về. Chú Phụng hỏi"Mày về luôn chứ?". Tôi khô khốc miệng, không nói được, chỉ gật đầu. Hai chú cháu tôi mỗi người một gánh đi về. Chú Phụng đi trước, tôi đi sau. Gánh lúa rất nặng. Tôi thấy chân mình run lắm nhưng cố bước. 100 bước. 200 bước. 1000 bước. 2000 bước. Cứ thế. Cứ thế mãi. Rồi cũng đến nhà. Cái Minh dọn cơm cho tôi ăn rồi vội vàng mang cơm ra đồng cho mẹ tôi và chị Ngữ. Tôi ăn cơm. Cơm có rau khoai lang luộc, cà muối, cá tép kho khế. Tôi ăn một lèo sáu bát cơm. Bây giờ đang mệt, nếu không mệt tôi đánh thông đấu gạo. Tôi ra giếng tắm, thay quần áo. Tôi lấy chiếc áo mới ra mặc, nhưng thấy ngượng nên thôi. Tôi mặc chiếc áo bộ đội bạc màu của bố tôi. Tôi sang nhà dì Lưu lấy xe đạp. Dì Lưu bảo"Cháu cầm lấy ít tiền". Dì Lưu đưa tôi năm nghìn nhưng tôi chỉ lấy hai nghìn. Hai nghìn là hơn cân thóc. Dì Lưu hỏi "Nhâm còn nhớ mặt em Quyên không?". Tôi gật đầu, thực ra tôi không nhớ lắm, nhưng gặp tôi cũng nhận ra. Tôi đạp xe ra ga. Từ làng tôi đến ga tám chín cây số. Lâu lắm tôi mới đi xa thế này. Con đường đất men theo rìa làng, qua đình làng, qua đầm sen rồi theo bờ mương ngược về huyện ly. Tôi nghĩ. Những ý nghĩ của tôi mông lung. Trang 2/5 Thương Nhớ Đồng Quê Nguyễn Huy Thiệp Tôi nghĩ Tôi nghĩ về sự đơn giản của ngôn từ Sự bất lực của hình thức biểu đạt Mà nỗi nhọc nhằn đầy mặt đất Sự vô nghĩa trắng trợn đầy mặt đất Những số phận hiu hắt đầy mặt đất Bao tháng ngày trôi đi Bao kiếp người trôi đi Sự khéo léo của ngôn từ nào kể lại được Ai nhặt cho tôi buổi sáng mai này Nhặt được ánh hoang vắng trong mắt em gái tôi Nhặt được sợi tóc bạc trên đầu mẹ tôi Nhặt được niềm hy vọng hão huyền trong lòng chị dâu tôi Và nhặt được mùi vị nghèo nàn trên cánh đồng quê Tôi rốt ráo bắn tỉa từng ý nghĩ Tìm cách săn đuổi cho nó vào chuồng Và tôi hú gọi trên cánh đồng lòng Tru lên như con sói hoang Tôi gắng gặt một lượm sống Bó buộc lỏng lẻo bởi dải băng ngôn từ Tôi hú gọi trên cánh đồng người Tôi nhặt những ánh mắt đời Hòng dõi theo ánh mắt tôi Dõi vào cõi ý thức Cõi ý thức mênh mông xa vời Dầu tôi biết vô nghĩa, vô nghĩa, vô nghĩa mà thôi. Ga chiều huyện lỵ vắng vẻ. Mấy con gà rã cánh đi trên sân ga. Có khoảng chục người chờ ở cổng. Vẳng lại tiếng nhạc ở băng cát-xét nhà nào đang mở. Tiếng hát của ca sĩ Nhã Phương chậm rãi"Người đi qua đời tôi, có nhớ gì không người? Em đi qua đời tôi, có nhớ gì không em?". Trang 3/5 Thương Nhớ Đồng Quê Nguyễn Huy Thiệp Hàng phở, hàng giải khát. La liệt là những sạp hành quần áo, giầy dép, đường sữa, thuốc lá. Ô tô chạy xuôi chạy ngược. Trời rất trong. Nắng bừng bừng. Cả phố huyện say nắng. Tiếng còi tàu hú từ xa dè dặt, vui mừng. Có ai nói to"Tàu về". Cả phố huyện vẫn mơ màng. Lại có ai gắt lên"Tàu về". Tiếng còi tàu hâm dọa, chói óc. Mọi người bỗng nhiên rối rít, cuống cuồng. Những bà, những chị, những đứa trẻ bán hàng rong chạy ngược chạy xuôi. Tiếng rao hàng chen nhau"Nước đây ! Ai bánh nào ! Ai nước nào ! Ai bánh nào ! Ai nước nào !". Tôi dắt xe đứng một chỗ nhìn. Người trên tàu ra đứng ngồi ngỗn ngang ở ngay bậc cửa. ây là ga lẻ. ồng quê tôi vô danh. Nơi tôi đứng đây vô danh. Khoảng hơn chục người lần lượt qua cổng soát vé. Tôi nhận ra mấy thầy cô giáo cấp ba trường huyện. Bộ đội. Mấy người buôn chuyến. Mấy người thợ sắt. Một ông to béo, đeo kính râm, mắt kính vẫn còn dán tem. Một thanh niên cao, gầy, tóc rễ tre, đôi mắt tư lự. Tôi biết người này. ấy là nhà thơ Văn Ngọc. Sau anh Ngọc là một cặp vợ chồng già. Quyên. Quyên xõa tóc, mặt áo pun, quần gin, đeo kính, khoác túi. Quyên trông khác hẳn mọi người bởi toàn bộ thần thái toát ra. Quyên qua cửa soát vé, nhìn quanh. Nhận ra tôi ngay. Quyên bảo "Tôi là Quyên. Có phải cô Lưu dặn anh đón tôi không?". Tôi bảo"Vâng". Quyên cười"Cám ơn anh. Anh là thế nào với cô Lưu? Anh tên gì?". Tôi bảo"Tôi là Nhâm, tôi là con ông Hùng". Quyên hỏi "Thế anh có họ hàng gì với tôi không?". Tôi bảo"Không". Quyên gật đầu"Tốt. Cô Lưu thuê anh à?". Tôi nhìn cái bóng tôi sẫm trên nền xi măng. Tôi, thân phận tôi, ở đâu người ta cũng nhận là kẻ làm thuê, làm mướn. Chiều xuống chậm. Những bóng râm chạy đuổi nhau lướt trên mặt đất. Chiều đánh rỗng nội tâm của ai hy vọng lý giải điều gì có nghĩa. Quyên hỏi"Nhà anh cấy bao nhiêu sào? Mỗi sào bao nhiêu thóc? ược bao nhiêu tiền?". Tôi bảo"Mỗi sào được hơn ba nồi, khoảng gần tạ, mỗi cân thóc một nghìn tư". Quyên nhẩm"Hai mươi triệu tấn thóc cho sáu mươi triệu người". Tôi bảo "Có ai chỉ nghĩ đến ăn". Qua đầm sen gặp sư Thiều. Sư Thiều chào. Tôi chào lại. Sư Thiều bảo"Tôi vẫn nhớ dành cho cậu cây hồng tú cầu". Tôi bảo"ể lúc nào qua chùa con xin". Tôi thú chơi hoa. Ông giáo Quì bảo"ấy là thú của kẻ biết đời". Sư Thiều bảo"Có lấy ít sen về cắm lọ không?". ầm sen của chùa mùa này nhiều hoa. Tôi dựng xe đẩy thuyền cho sư Thiều. Chiếc thuyền thúng chỉ vừa người ngồi. Chèo khua nước. Quyên bảo"Tôi muốn đi thuyền". Tôi gọi sư Thiều. Sư Thiều ghé thuyền vào. Sư Thiều ôm bó hoa sen đặt lên bờ. Quyên trèo lên thuyền. Tôi đẩy thuyền ra. Sư Thiều bảo"Chìu người lụy ta". Tôi cười. Tôi và sư Thiều ngồi ở trên bờ. Chiều vẫn xuống chậm. Nắng hoe vàng. Trong lòng tôi rỗng hoác, rỗng lắm, một khoảng rỗng không. Quyên lên bờ. Sư Thiều mời ăn ngó sen. Sư Thiều hỏi "Ngon không?". Quyên bảo"Ngon". Trang 4/5 Thương Nhớ Đồng Quê Nguyễn Huy Thiệp Nấn ná một lát rồi về. Sư Thiều chào. Quyên chào lại. Quyên ôm bó hoa sen. Sư Thiều tần ngần đứng trông theo. Tôi đi trước. Quyên đi sau. Quyên hỏi tôi về sư Thiều. Trang 5/5 Powered by TCPDF
truyện thương nhớ đồng quê